Cây ngũ bội tử điều trị bệnh có hiệu quả không?

Ngũ bội tử là những túi đặc biệt do nhộng của con sâu Ngũ bội tử ( Melaphis chinensis ( Bell) Baker), ký sinh trên những cuống lá và cành của cây Muối hay Diêm phụ mộc có nhiều loại có tên thực vật khác nhau như Rhus chinensis Mill R.Potaninii Maxim, R.punjabensis Stew var Sinica ( Diels) Rehd et Wils, thuộc họ Đào lộn hột ( Anacardiaceae).

Xem thêm: https://tamminhduong.com/tin-y-hoc/ngu-boi-tu.html

Ngũ bội tử dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản thảo thập di. Ở nước ta, Ngũ bội tử chỉ mới phát hiện có ít tại các tỉnh Cao bằng, Lạng sơn, Hà giang, Tuyên quang, Hoàng liên sơn, Lào cai và một số vùng Tây bắc, vùng biên giới Trung việt. Ngũ bội tử cũng có tại Nhật bản, Trung quốc ( Quảng đông, Quảng tây, Vân nam, Phúc kiến.)

Ngũ bội tử có tên gọi là Bầu bí, Mặc piết, Bơ pật ( Thái), Văn cáp, Bách trùng thương ( Trung quốc).

Tính vị qui kinh:

Vị chua sáp tính hàn, qui kinh Phế, Đại trường, Thận.

Theo các sách cổ:

  • Sách Khai báo bản thảo: vị đắng chua, bình, không độc.
  • Sách Bản thảo cương mục: chua mặn bình, không độc.
  • Sách Bản thảo bị yếu: mặn chua sáp hàn.
  • Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập Đại trường kinh.
  • Sách Bản thảo kinh sơ: nhập thủ thái âm, túc dương minh kinh.
  • Sách Bản thảo tái tân: nhập 3 kinh Can, Phế, Thận.

Thành phàn chủ yếu:

Thành phần chủ yếu là Tanin ( tannic acid) còn gọi là galotanic acid, chiếm tỷ lệ 50 - 80%, resin 2 - 4%, chất béo, tinh bột.

Tác dụng dược lý:

A.Theo Y học cổ truyền:

Ngũ bội tử có tác dụng: liễm phế gíang hỏa, sáp tràng, cố tinh, liễm hãn chỉ huyết. Chủ trị các chứng: Phế hư cửu khái, cửu tả cửu lî, thóat giang (lòi dom, prolapsus rectal), di tinh, hoạt tinh, tự hãn, đạo hãn, băng lậu hạ huyết.

Trích đọan Y văn cổ:

  • Sách Bản thảo thập di: " tràng hư tả lî, dùng bột sắc thuốc thang uống nóng".
  • Sách Bản thảo cương mục: " liễm phế giáng hỏa, hóa đàm ẩm, chỉ khái thấu, tiêu khát, đạo hãn, nôn mữa, mất máu, lî lâu ngày, bệnh vàng da, đau bụng trên, trẻ em khóc đêm, làm đen tóc râu. Trị mắt đỏ lóet lở, tiêu sưng độc, trị hầu tý ( đau sưng họng), làm thu miệng các nhọt lở lóet, trị lòi dom, sa ruột".

B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:

  1. Thuốc có nhiều chất tanin gây kết tủa albumin nên có tác dụng thu liễm làm lành các vết lóet ngoài da, niêm mạc. Chất tanin có thể kết hợp với một số kim loại, ancaloid, glucozit hình thành các hợp chất không hòa tan cho nên có tác dụng giải độc tố đối với các loại thuốc có thành phần như trên.
  2. Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc Ngũ bội tử có tác dụng ức chế hoặc giết chết in vitro nhiều loại vi khuẩn như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn, trực khuẩn thương hàn, phó thương hàn, kiết lî, bạch hầu, trực khuẩn mủ xanh, virus cúm, chủng virus PR8.

3. Độc tính của thuốc: cho súc vật thí nghiệm uống nước sắc 100% Ngũ bội tử với liều 20g/kg không thấy có tác dụng gì biểu hiện. Nhưng với cùng liều cho chích dưới da, sinh ra hoại tử tại chỗ, tinh thần kích động, khó thở và tử vong trong 24 giờ.

Ứng dụng lâm sàng:

1.Trị xuất huyết đường tiêu hóa trên: Trần Vệ Tinh và cộng sự dùng: Ngũ bội tử 6g sắc còn 100ml, chia 3 lần uống trong ngày, nhịn ăn đối với bệnh nhân nôn máu, trường hợp không nôn ăn chế độ lỏng, huyết sắc tố dưới 7g, cho truyền máu. Mỗi ngày theo dõi phân và làm thử nghiệm máu của phân. Tác giả trị xuất huyết đường tiêu hóa trên 33 ca, kết quả sau 1 tuần, thử nghiệm máu trong phân chuyển âm tính 29 ca, tỷ lệ 91%, do táo bón 9 ngày chuyển âm tính 2 ca, 11 ngày chuyển âm tính 1 ca, 1 ca do ung thư bao tử nên không kết quả ( Học báo học viện Trung y Triết giang 1987,6:20).

2.Trị di tinh: Dương Hiểu dùng bột mịn Ngũ bội tử trộn với nước muối sinh lý thành hồ lỏng phết vào miếng cao dán 3 x 4cm dán vào huyệt Tứ mãn ( huyệt ở vị trí dưới rốn 2 thốn ngang ra mỗi bên 0,5 thốn), 3 ngày thay 1 lần, 3 lần là 1 liệu trình. Trị 35 ca kết quả tốt 9 ca, có kết quả 19 ca, không kết quả 7 ca ( Báo Trung Y dợc Tân cương 1986,4 bìa 4)

3.Trị sẹo do bỏng: Phòng văn Bưu và cộng sự dùng Ngũ bội tử 8 - 100g tán bột mịn, giấm đen 250ml, Ngô công 1 con tán bột, Mật ong 18g, trộn đều thành cao, phết vào vải đen dán vùng sẹo, 3 - 5 ngày thay 1 lần cho đến khi sẹo mềm và băng lại, hết triệu chứng, chức năng hồi phục. Trị 10 ca đều có kết quả ( Báo Tân trung y 1986,12:8).

4.Trị tưa miệng ( muguet): Tiết duy Chấn dùng bột Ngũ bội tử 20g, Băng phiến 3g, tán bột mịn trộn đều thổi vào vùng bệnh, ngày 2 lần. Trị 20 ca, trong 2 ngày khỏi ( Báo Trung y Hà bắc 1987,6:48).

5.Trị trĩ: Đặng Quế Trân dùng Ngũ bội tử 500g, tán vụn (sạch), ngâm vào 52,5% cồn 1000ml, bỏ vào lọ bịt kín giữ trong 1 - 2 tháng, lọc nấu sôi vô trùng. Sau khi vô trùng hậu môn vùng trĩ, trực tiếp chích vào búi trĩ, bên trong uống thanh nhiệt chỉ huyết thông tiện, giữ không cho táo bón, sau khi đi tiêu ngâm rửa hậu môn với thuốc tím, thay thuốc dán cao Hoàng liên cho đến khi trĩ rụng, miệng lành. Trị 80 ca đều khỏi ( Tạp chí Trung y Hà bắc 1984,2:25).

6.Trị mồ hôi đêm: dùng bột Ngũ bội tử làm thành hồ đắp lên rốn bệnh nhân trước lúc ngủ, đã trị cho 61 ca mồ hôi đêm đều bớt ở mức độ khác nhau ( bệnh nhân lao hoặc lao biến chứng bụi phổi).

7.Trị đau bụng tiêu lỏng: Ngũ bội tử tán bột làm viên bằng hạt đậu xanh, ngày uống 15 - 20 viên với nước Bạc hà.

8.Trị đái dầm: Ngũ bội tử giã nhỏ thêm nước thành hồ đắp vào rốn.